Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014

Căn cứ khoa học về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa - Kỳ 1 (Tia Sáng 3/6/2014)

http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=116&CategoryID=42&News=7550
Căn cứ khoa học về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Kỳ 1: Những viện dẫn của học giả Trung Quốc

GS.TSKH Vũ Minh Giang

Đảo Trường Sa nhìn từ máy bay trực thăng.
(Ảnh do tác giả chụp)

Trong cuộc chạy đua tranh chấp chủ quyền biển đảo ở Thái Bình Dương những thập niên gần đây, song song với việc tăng cường sức mạnh quân sự, các nước cũng đẩy mạnh việc nghiên cứu, xây dựng chứng cứ cho các lập luận về chủ quyền của mình. Trung Quốc là nước đi đầu và hết sức chú ý đầu tư cho việc làm này. 
------------

Ngay từ khi cho quân đội đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa vào năm 1974, Trung Quốc đã huy động một lực lượng đông đảo các học giả dưới sự lãnh đạo của Hàn Chấn Hoa tiến hành kê cứu và biên soạn một cuốn sách đồ sộ, ra sức chứng minh hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa) thuộc chủ quyền Trung Quốc. Năm 1985 bộ sách hoàn thành và được phát hành tại nhà xuất bản trường đại học Hạ Môn, dưới danh nghĩa Viện Nghiên cứu Nam Dương. Và như một một sự phối hợp có chủ đích, cùng với hành động quân sự tấn công chiếm đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, năm 1988 bộ sách tư liệu nói trên dưới đầu đề Ngã quốc nam hải chư đảo sử liệu hối biên (Tập hợp các sử liệu về các đảo của nước ta ở vùng biển phía nam) được in lại và phát hành với số lượng lớn bởi nhà xuất bản Đông Phương1. Tập sách dày gần 1.000 trang này đã nhanh chóng trở thành cơ sở lập luận chủ yếu cho các tuyên bố ngoại giao, những quyết định chính trị của Trung Quốc trong các vấn đề liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa và Biển Đông nói chung.

Thái Bình Dương là đại dương không hề yên bình như tên gọi của nó. Dưới đáy biển có rất nhiều miệng núi lửa bao quanh vòng lòng chảo với tổng chiều dài lên tới trên 4 vạn km, tạo nên một vành đai địa chấn (hay còn gọi là vành đai lửa), là nguyên nhân thường xuyên gây ra những trận động đất, sóng thần khủng khiếp. Riêng trận động đất và sóng thần Tohoku năm 2011 đã lấy đi mạng sống của gần 16 ngàn người, gần 1 vạn người mất tích, hàng triệu gia đình mất nhà cửa và cùng với thiệt hại vật chất lên tới nhiều tỷ đô la cùng những hậu quả năng nề mà nhiều thập niên nữa chưa chắc đã khắc phục được. Đây cũng là vùng nhiều bão nhất thế giới, trong đó những cơn bão có cường độ mạnh chiếm tới trên 70%.

Cũng do đặc điểm này mà sự thành tạo các đảo ở Thái Bình Dương cũng khác các nơi khác. Với ước chừng khoảng 25.000 đảo lớn nhỏ, Thái Bình Dương số đảo nhiều hơn số đảo của tất cả các đại dương khác cộng lại.
Trước khi xem căn cứ khoa học khẳng định chủ quyền của Việt Nam cần hiểu những luận lý của các học giả Trung Quốc về vấn đề này. Vậy căn cứ và lập luận chủ yếu của các tác giả cuốn sách là gì?

Không khó khăn lắm để thấy rằng tư tưởng xuyên suốt của cuốn sách là cố chứng minh người Trung Quốc đã phát hiện, đặt tên các đảo và chiếm hữu hai quần đảo này từ thời Đông Hán, cách ngày nay gần 2000 năm. Sau đó đến các thời Đường, Tống, Nguyên, Minh, và nhất là từ triều Thanh đến nay, Trung Quốc liên tục thực thi chủ quyền trên hai quần đảo này. Phương pháp nhất quán của các tác giả sách này là không nói rõ bối cảnh lịch sử, trích dẫn cắt xén tư liệu để người đọc khó hình dung được bối cảnh lịch sử, ngữ cảnh nguyên tác, rồi giải thích ý nghĩa những đoạn trích ấy theo ý mình.

Có thể dẫn ra đây một số thí dụ rất điển hình.

Cuốn sách sớm nhất nhất được các học giả Trung Quốc ra dẫn ra làm căn cứ về “chủ quyền” của Trung Quốc trên hai quần đảo là Dị vật chí (ghi chép về những vật lạ) của Dương Phù thời Đông Hán (23-220). Câu được chép ra là: “Trướng hải kỳ đầu thủy thiển nhi đa từ thạch…” (漲海崎頭水淺而多磁石…, có nghĩa là Biển sóng triều dâng gập ghềnh đá ngầm, nước cạn mà nhiều đá nam châm…). Các tác giả giải thích rằng Trướng hải là tên gọi biển Đông của người Trung Quốc thời đó và vùng đá ngầm dưới có từ tính nam châm là chỉ hai quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) và Nam Sa (Trường Sa). Tài liệu này được dẫn lại ở rất nhiều nơi, đăng trên cả trang thông tin của Bộ Ngoại giao Trung Quốc với lập luận hai quần đảo này do người dân Trung Quốc phát hiện và đặt tên sớm nhất (từ thời Đông Hán).

Tương tự như vậy, để củng cố cho lý lẽ trên, Hàn Chấn Hoa và các tác giả sách Ngã quốc nam hải chư đảo sử liệu hối biên còn trích ra nhiều câu khác trong sách cổ thời Tam quốc, thời Tùy, thời Đường như Phù Nam truyện của Khang Thái, Ngô lục của Trương Bột, Nhĩ nhã của Quách Phác… nói việc người thời ấy đã viết trong Trướng hải (tên Biển Đông theo cách gọi của người Trung Quốc) có san hô, có đồi mồi, có ốc lớn bằng cái đấu, vỏ có thể dùng để uống rượu...2 để suy diễn xa hơn rằng trong sách của mình, Quách Phác đã chú thích vùng biển nói tới ở đây là vùng biển thuộc quận Nhật Nam (vùng đất từ Quảng Bình đến Quảng Ngãi), rằng người Trung Quốc thời ấy đã biết đến hai quần đảo.

Những câu trích dẫn này thực ra chỉ là những ghi chép về các hiện tượng mà các tác giả đương thời cho là hay, là lạ (dị vật), chứ hoàn toàn không có ý nghĩa gì về việc phát hiện, đặt tên đảo nên không thể coi là chứng lý về chủ quyền và càng không phải là bằng chứng của việc chính quyền thực thi chủ quyền trên hai quần đảo này.

Từ năm 960 triều Tống thiết lập quyền thống trị trên toàn cõi Trung Hoa. Những tư liệu lịch sử từ thời kỳ này về chủ quyền là rất đáng lưu ý. Tuy nhiên, các tư liệu được các học giả Trung Quốc đưa ra cũng thiếu tính thuyết phục. Đa số những câu trích có nhắc đến hai quần đảo Vạn Lý Trường Sa và Thiên Lý Thạch Ðường (mà Trung Quốc nói là tên khác của Tây Sa/Hoàng Sa và Nam Sa/Trường Sa) đều xuất hiện trong các hải trình, được mô tả trong các sách của tác giả Trung Quốc, nhưng nói về nước ngoài, hoặc liên quan đến nước ngoài (không phải Trung Quốc) như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi, Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát. Đúng như tên gọi của những sách này, “Lĩnh ngoại” là ngoài biên giới Trung Quốc, nói về những chuyện bên ngoài. “Chư phiên” là các nước Trung Quốc cho là chư hầu của mình, chuyện chép về các nước xung quanh mình. Do vậy, những mô tả về biển đảo hoặc hải trình đi tới các nước các nước như Giao Chỉ, Chiêm Thành, Chân Lạp thì tên các quần đảo Thiên Lý Trường Sa Vạn Lý Thạch Ðường (mà Trung Quốc cho là Tây Sa và Nam Sa) được nhắc đến để chỉ vị trí hoàn không có ý nghĩa nào trong việc xác định chủ quyền của Trung Quốc. Đấy là chưa kể từ ngữ dùng trong các sách này cho thấy tác giả cũng chỉ nghe truyền lại, chứ không biết đích xác ra sao. Có thể dẫn ra đây một vài đoạn trích mô tả vị thế xung quanh đảo Hải Nam mà Hàn Chấn Hoa sử dụng để khẳng định sách Chư phiên chí nói 2 quần đảo này là của Trung Quốc:

 “Nam đối diện với Chiêm Thành, phía tây nhìn sang Chân Lạp, đông thì Thiên Lý Trường Sa, Vạn Lý Thạch Ðường, xa xôi không bờ, trời nước một màu”.

Một đoạn trích khác: “Nghe truyền rằng[nguyên ngữ 傳聞: truyền văn] biển lớn phía đông có Trường Sa Thạch Ðường rộng vạn dặm, nước thủy triều thi triển đẩy vào chốn cửu u”3.

Các sử liệu đời sau được biên soạn vào thời Nguyên, Minh được tập hợp trích dẫn, về cơ bản cũng theo cung cách như vậy. Tất cả các đoạn trích dẫn ra đều được giải thích theo cách hiểu//chủ ý của người dẫn. Người đọc khó có thể bị thuyết phục bởi cách giải thích ấy. Nhiều học giả trong và ngoài nước đã có những phân tích xác đáng và đều nhận định khá thống nhất rằng kiểu cách tập hợp, trích dẫn và giải thích sử liệu của nhóm Hàn Chấn Hoa không theo các nguyên tắc khoa học mà có dụng ý chủ quan, cắt xén, lắp ghép tùy tiện và giải thích gượng ép4. Có thể nói luận lý của các học giả Trung Quốc về chủ quyền của học đối với hai quần đảo đang nói ở đây có từ thời Đông Hán và được thực thi suốt từ đó đến nay ngày càng ít người quan tâm vì tính chất phi lý, phản khoa học của nó và vì vậy, phía Trung Quốc cũng không nói tới nó nhiều.

Trong thời gian gần đây, Trung Quốc ra sức đề cao sự kiện Đô đốc nhà Thanh là Lý Chuẩn đưa quân ra Tây Sa (Hoàng Sa) kéo cờ, bắn pháo vào năm 1909 và coi đó là mốc thời gian xác lập chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo này. Sự kiện này chẳng còn mấy ý nghĩa vì thời điểm diễn ra vào đầu thế kỷ XX, khi mà Việt Nam đã có rất nhiều tư liệu khẳng định chủ quyền và thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ trước đó nhiều thế kỷ (sẽ trình bày ở phần dưới). Vả lại, chính việc đề cao này lại tự nó bác lại những lập luận mà các học giả Trung Quốc phải dày công xây dựng tư liệu để chứng minh Tây Sa và Nam Sa đã được người Trung Quốc phát hiện và sở hữu từ thời Hán, cách ngày nay tới vài ngàn năm.

Tháng 2 năm 1948, Vụ Biên giới và Lãnh thổ, Bộ Nội vụ của Trung Hoa dân quốc cho xuất bản bản đồ có tên Bản đồ vị trí các đảo Nam hải (南海诸岛位置图) với 9 đường đứt khúc chiếm khoảng 75% mặt nước Biển Đông, ôm trọn hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Bản đồ này được vẽ dựa trên cơ sở một bản đồ cá nhân vẽ trước đó vài chục năm với 11 đoạn đứt khúc đã bỏ đi 2 đoạn nằm trong vịnh Bắc Bộ. Mặc dù đường 9 đoạn đang được dùng như một “căn cứ không thể chối cãi” về chủ quyền của Trung Quốc trên hai quần đảo, nhưng tính chất phi lý, phản khoa học của nó đang bị phê phán rất mạnh mẽ. Trong thời gian gần đây, lý lẽ khoa học của Trung Quốc không thấy có gì mới, chủ yếu chỉ là những tuyên bố theo kiểu “Trung Quốc có chủ quyền không thể chối cãi” mà thôi.

Kỳ 2: Tư liệu lịch sử về việc Trung Quốc tự phủ nhận chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

---

1 韩 振 华(主编): 我國南海諸島史料滙编 . 厦门大学 南洋研究院出版 1985 年. 东方出版社1988 年7月第1版

2 Phần lớn các tài liệu này đều được dẫn lại trong sách Thái Bình ngự lãm (太平御覧,) của Lý3 Phương, được biên soạn vào thời Tống, muộn hơn thời của các nguyên tác.
  韩 振 华 (主编), Sđd, tr. 33-37

4 Có thể xem thêm Lưu Văn Lợi: Cuộc tranh chấp Việt-Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, NXB Công an Nhân dân, 1995; Roderik Ptak: Các đảo ở biển Đông theo các tài liệu của Trung Quốc; Hồ Bạch Thảo: Phản biện lập luận của nhà nghiên cứu Hàn Chấn Hoa về lãnh vực sử địa cổ có liên quan đến Biển Ðông được đề cập trong tác phẩm Ngã quốc Nam hải chư đảo Sử liệu hối biên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét