http://vov.vn/bien-dao/chu-quyen-hoang-sa-va-truong-sa-nhin-tu-cong-phap-quoc-te-197939.vov
Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế
Việc xác định chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trên cơ sở luật pháp quốc tế là một yêu cầu cần thiết.
Diễn
biến trên Biển Đông thời gian gần đây đã trở nên đặc biệt nguy hiểm với
những bước leo thang tuyên bố chủ quyền phi lý của Trung Quốc, bất chấp
luật pháp quốc tế và thực tiễn lịch sử.
Ngày 2/5 vừa qua, với việc kéo giàn khoan Hải Dương 981 ngang nhiên vào hạ đặt tại vùng biển hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung Quốc đã vi phạm trắng trợn những thỏa thuận đã đạt được với Việt Nam và khối ASEAN về việc giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Ngày 2/5 vừa qua, với việc kéo giàn khoan Hải Dương 981 ngang nhiên vào hạ đặt tại vùng biển hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung Quốc đã vi phạm trắng trợn những thỏa thuận đã đạt được với Việt Nam và khối ASEAN về việc giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Trong
tình hình hiện nay, yêu sách của mỗi quốc gia về chủ quyền đối với quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như khu vực Biển Đông cần phải dựa trên
những bằng chứng lịch sử thuyết phục và phải dựa trên cơ sở luật pháp
quốc tế, lấy luật pháp quốc tế là tiêu chuẩn tối cao để giải quyết các
tranh chấp về chủ quyền.
Tuân
thủ luật pháp quốc tế cũng là ứng xử văn minh và có trách nhiệm mà tất
cả các quốc gia, đặc biêt là Trung Quốc, một nước có chân trong Hội Đồng
bảo an Liên Hợp Quốc, cần phải tôn trọng.
Loạt bài “Chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa nhìn từ công pháp quốc tế”của nhóm phóng viên Lê Phúc, Lê Bình, Thùy Vân và Thu Lan đề cập nội dung này.
Bài 1: Việt Nam- Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa
Một
yêu sách chủ quyền đối với các lãnh thổ vô chủ phải bao hàm hai thành
tố: ý định, ý chí hành động với tư cách nước có chủ quyền và phải thực
hiện thật sự quyền lực đó. Chỉ khi có hai yếu tố này thì việc thụ đắc
chủ quyền mới được chấp nhận theo luật pháp quốc tế. Theo đó, việc phát
hiện kèm theo sự khẳng định công khai về chủ quyền mới chỉ tạo ra một
danh nghĩa sơ khởi. Để hoàn thiện danh nghĩa này, làm cho nó đầy đủ và
chắc chắn, phải có sự chiếm hữu thực sự, kèm theo ý định chiếm lấy lãnh
thổ một cách rõ ràng. Như vậy, có hai yếu tố xen kẽ: một là yếu tố vật
chất: việc phát hiện, sau đó là yếu tố chủ tâm, sự khẳng định công khai
về chủ quyền; và sau hết là sự tăng cường yếu tố vật chất.
Trong yếu tố vật chất cần phân biệt rõ sự khác biệt giữa hiểu biết đơn thuần về lãnh thổ và chiếm hữu thực sự.
Một
lãnh thổ, nhất là đảo hay quần đảo, có thể từ rất lâu, các thủy thủ,
ngư dân đã thường xuyên lui tới hay cũng có thể các nhà địa lý đã biết
đến vì họ muốn mở rộng việc nghiên cứu tới tất cả khu vực, bất kể thuộc
chủ quyền của quốc gia nào. Khi ấy, lãnh thổ này không là đối tượng của
“phát hiện” có hiệu lực pháp lý. Chỉ phát hiện thôi thì không bao giờ
tạo được cơ sở đảm bảo cho một yêu sách đối với đất vô chủ. Đó chỉ là
những hiểu biết đơn thuần về lãnh thổ.
Trong khi đó, nội dung chủ yếu của nguyên tắc chiếm hữu thật sự trong luật pháp quốc tế bao gồm :
- Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do Nhà nước tiến hành;
-
Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh
thổ vô chủ hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia
đã làm chủ nó trước đó. Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động
phi pháp;
-
Quôc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần
thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên
vùng lãnh thổ đó;
- Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.
Căn
cứ vào nguyên tắc pháp lý này (tính đến năm 1884), đối chiếu với quá
trình xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
do các bên tranh chấp nêu ra, chắc chắn sẽ có được những nhận xét khách
quan và khoa học về quyền thủ đắc lãnh thổ đối với hai quần đảo này.
Trước hết, chúng ta cùng xem xét đến những chứng cứ của phía Trung Quốc:
Trung
Quốc đã trích dẫn nhiều dẫn chứng trong các sách địa lý để chứng minh
chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Qua
nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả
trong đó nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của
người Trung Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… ở các nước
thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Á và đường hàng hải từ Trung Quốc ra
nước ngoài. Vì vậy, các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng
minh sự hiểu biết chung các địa điểm chứ không có ý nghĩa pháp lý, nhờ
đó, có thể đặt hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của
Trung Quốc.
Nam
Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết dưới triều
Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hằng hải trong Biển Đông nhưng lại rất
không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này
hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.
Phù
Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận rằng, đã gặp
trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những mô tả về quần
đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, thiếu chính xác,
không thể căn cứ vào đó để nói rằng đó chính là Trường Sa.
Các
tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178),
Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di chí lược của
Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp
(1618), Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục viết
ở đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820), Hải quốc đồ chí của
Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848),vv…
là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, các chuyến khảo
địa lý, sách hằng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc.
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam
Ông
Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam cho rằng,
thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút ra từ đó
kết luận, Hoàng Sa, Trường Sa từ lầu đã là lãnh thổ của Trung Quốc:
“Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ
địa điểm của Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ
là Giao chỉ dương, đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao
chỉ. Hàng trăm bản đồ quốc tế khác nhau, tất cả đều rất thống nhất về
phương diện công pháp quốc tế, chứng minh rất rõ ràng chủ quyền Hoàng
Sa, Trường Sa là của Việt Nam.”
Người
Trung Quốc còn đưa ra các dẫn chứng khác để chứng minh chủ quyền lâu
đời của mình đối với Hoàng Sa, Trường Sa. Nhưng phải khẳng định ngay
rằng, chúng không thể hiện rõ ràng ý định của nước này về chủ quyền đối
với hai quần đảo.
Đó
là dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), "hải quân Trung Quốc đã đi
tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa (tức quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam)",
xuất phát từ Quảng Đông, qua đó kết luận rằng, "triều đình Bắc Tống đã
đặt quần đảo Tây Sa trong phạm vi cai quản của mình". Khi phân tích kỹ
dữ liệu này thấy rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến
thăm dò địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương, không minh chứng một sự chiếm
hữu nào.
Bộ
Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở
"Nam Hải" để nói rằng, "quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung
Quốc đời Nguyên".
Theo
Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn đầu
đời Nguyên được ghi chép như sau: "Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai
mươi bảy nơi, Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua
Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc". Ghi chép trong Nguyên Sử thấy rõ,
việc đo đạc thiên văn ở hai mươi bảy nơi, trong đó có cả một số nơi
ngoài "cương vực Trung Quốc" như Cao Ly nay là Triều Tiên, Thiết Lặc
vùng Xi-bia, thuộc Nga và cả Biển Đông, chứ không phải là "đo đạc" "toàn
quốc" như văn kiện của Bắc Kinh nói. Mặt khác, nếu coi đó là cơ sở pháp
lý cho chủ quyền của Trung Quốc thì điều đó có thể dẫn đến những đòi
hỏi của nước này về lãnh thổ tới cả cả Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều
Tiên và Nga!
Cuối
cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một cuộc tuần biển được
tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô Thăng,
Phó tướng thủy quân Quảng Đông chỉ huy chuyến đi này. Người Trung Quốc
khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần đảo
Hoàng Sa và kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do hải quân tỉnh Quang
Đông phụ trách tuần tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên
bản đồ, dễ dàng nhận xét rằng, đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo
Hải Nam chứ không phải là hành trình tới các biển xa. Đoạn văn viết:
“Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba
ngàn dặm”. Xin được chú thích rõ các địa danh này: Quỳnh Nhai gần thị
trấn Hải Khẩu ngày nay, phía Bắc đảo Hải Nam; Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo
Hải Nam; Thất Châu Dương là vùng biển có 7 hòn đảo gọi là Thất Châu nằm
ở phía Đông đảo Hải Nam; Tứ Canh Sa là bãi cát ở phía Tây Đảo Hải Nam.
Quan
trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử
và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía Trung Quốc đưa
ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành,
hằng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán thì
trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng
sách du ký, chứ không phải tài liệu chính thống của chính quyền Trung
Quốc. Để xác lập chủ quyền thì những điều được biên chép phải nằm trong
trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ mình gọi địa chí, Trung Quốc
gọi là phương chí. Đó là những phương tiện được Nhà nước thừa nhận.”
Rõ
ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm soát thực sự các
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì nó thiếu hẳn các yêu cầu mà luật quốc tế
thời đó đòi hỏi.
Các
tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu của
nước này. Theo đó, có nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh thổ
của nước này có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam. Trong đó, đáng
chú ý là cuốn địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn địa chí tỉnh Quảng
Đông năm 1731. Điều này cũng được ghi trong Hoàng triều nhất thống Dư
địa tổng đồ, phát hành năm 1894. Ngoài ra, quyển sách “Trung Quốc Địa lý
học giáo khoa thư”, phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng: “điểm cực
Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18o13’ Bắc.”
Ông
Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư
Trung Quốc nhấn mạnh: “Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những bộ chính sử
của triều đại, các mục địa lý chí đó chưa từng biên chép gì về hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung
Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Những chỉ dụ của Hoàng
Đế hoặc tấu sớ của các quan trong triều cũng thừa nhận đơn vị hành
chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức là đảo Hải Nam.”
Qua
việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa ra, bà Monique
Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường
Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ
Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: người Trung Quốc
cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng
chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc
là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo
này:
“Trung
Quốc đưa ra những giấy tờ cho rằng đã tìm ra các hòn đảo này từ lâu,
nhưng về khía cạnh luật pháp, tôi có thể nói rõ, Trung Quốc không đưa ra
được bằng chứng thuyết phục nào. Mãi về sau này, Trung Quốc mới có yêu
sách về chủ quyền đối với các quần đảo. Đối với Hoàng Sa, Trung Quốc có
yêu sách về chủ quyền bắt đầu từ năm 1909. Còn đối với Trường Sa là sau
Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong khi đó, Việt Nam có những bằng chứng
quan trọng và thuyết phục hơn nhiều xét về khía cạnh luật pháp, với sự
quản lý lâu đời và liên tục”- bà Monique Chemillier Gendreau nói.
Các
tài liệu của Việt Nam cho thấy, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần
đảo này khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào.
Toàn
tập Thiên Nam từ chí lộ đồ thư, được soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ
trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam: "giữa biển
có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng", "Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng
cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều
là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Ông
Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam phân tích:
“Từ bản đồ Hồng Đức năm 1490, rồi sau này của nhà Nguyễn (1838) cũng vẽ
bản đồ trong Đại nam nhất thống toàn đồ cũng chỉ rõ, ở bên cạnh, gần
miền Trung, phía trên là quần đảo Hoàng Sa, phía dưới ghi là Vạn Lý
Trường Sa.”
Chứng
cứ kế tiếp xác lập rõ ràng hơn nữa chủ quyền của Việt Nam là bộ sách
Phủ Biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn viết về lịch sử,
địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775). Bộ
sách này chép rõ, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức việc khai thác
hai quần đảo đó với tư cách một quốc gia làm chủ.
Lê
Quý Đôn viết: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã
An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang
lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền tiểu câu ra biển 3 ngày 3
đêm thì đến các đảo ấy rồi ở lại đó. Tha hồ kiếm lượm, bắt chim bắt cá
mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc,
vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ,
đồ chiên cùng là kiếm lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột ốc hoa,
rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để
nộp. Cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc hoa, hải ba,
hải sâm, rỗi lĩnh bằng trở về.
Họ
Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất hoặc người thôn
Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì
cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền
tiểu câu ra các xứ Bắc Hải, Cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm
lượm hoá vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng
sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản".
GS.
Nguyễn Quang Ngọc, Viện trưởng Viện Việt Nam học và phát triển, Đại học
Quốc gia Hà Nội phân tích: “Chúng ta có 1 loại tài liệu về chủ quyền
Hoàng Sa và Trường Sa mà không có bất cứ một quốc gia nào có. Tài liệu
đó là châu bản. Nó là những báo cáo của Bộ Công về việc thực hiện lệnh
của nhà vua, đề nghị cho tàu thuyền đi khảo sát, đo đạc ở Hoàng Sa. Nhà
vua xem, đồng ý, phê vào đấy. Tức đây là một loại quyết định chính thức
của triều đình được nhà vua phê duyệt. Không có nước nào có những tài
liệu này đưa ra làm chứng cả, chỉ có chúng ta có. Những tài liệu này là
đỉnh cao tuyệt vời khẳng định rõ ràng chủ quyền của chúng ta ở Hoàng Sa,
Trường Sa.”
Rõ
ràng, Việt Nam không chỉ có sự hiểu biết lâu đời đến hai quần đảo này
mà còn chiếm hữu thực sự chúng ít nhất từ thế kỷ XVII, là nhà nước đầu
tiên xác lập chủ quyền trên các quần đảo này.
Vấn
đề đặt ra bây giờ là Việt Nam có quản lý liên tục và hòa bình các quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa? Chúng tôi sẽ đề cập nội dung này trong bài viết: Việt Nam quản lý Hoàng Sa, Trường Sa liên tục và hoà bình.
Theo Lê Phúc-Lê Bình-Thùy Vân-Thu Lan
Vov.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét