Cuộc chiến thông tin và tình hình Biển Đông: Trung Quốc đã khơi mào!
Hải Minh dịch 18/6/2014
****
Trong khi tranh chấp với Việt Nam vẫn tiếp diễn, Trung Quốc
đang cố gắng ‘đi nước đôi’ tại Liên Hiệp Quốc.
Cuộc đối đầu trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam tại
vị trí của giàn khoan HYSY 981 trong vùng lãnh hải tranh chấp ở Biển Đông từ đầu tháng Năm cho tới bây giờ đã bước vào tuần thứ bảy.
Vào ngày 9/6 Trung Quốc bất ngờ mở ra một mặt trận mới
khi Phó Đại sứ tại Liên Hợp Quốc Wang Min trình lên Tổng thư ký Ban Ki-moon một
bài báo cáo chính thức về hiện trạng cuộc tranh chấp với yêu cầu rằng ngài tổng
thư ký chuyển báo cáo này tới tất cả các 193 thành viên của Liên Hợp Quốc.
Hành động của Trung Quốc trong việc quốc tế hóa
tranh chấp với Việt Nam không thể hiện một sự thay đổi trong chính sách lâu dài
của họ là tranh chấp hàng hải chỉ có thể được giải quyết song phương thông qua
tham vấn và đàm phán của các bên liên quan trực tiếp. Một ngày sau khi Trung Quốc
gửi báo cáo của họ, Hua Chunying, một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao TQ, nói rằng
Trung Quốc từ chối phân xử của Liên Hợp Quốc về tranh chấp với Việt Nam.
Vậy tại sao trước đó
Trung Quốc đã đưa tranh chấp với Việt Nam ra Liên Hợp Quốc?
Năm 2003, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Ủy
ban Quân sự Trung ương chính thức thông qua học thuyết "tam chủng binh pháp" (san zhong zhanfa). Học
thuyết "tam chủng binh pháp" là một yếu tố thiết
yếu của chiến tranh thông tin.
Theo công trình "Tam chủng binh pháp của TQ", một nghiên cứu
được thực hiện
bởi Timothy A. Walton năm 2012 cho Cơ
quan Tư
vấn, Nghiên cứu và Phân tích Delex, "tam
chủng binh pháp" của Trung Quốc bao gồm ba thành tố: chiến tranh
tâm lý, chiến tranh truyền thông, và chiến tranh pháp lý. Chính thành tố thứ 2
và thứ 3 là cơ sở cho bài báo cáo hiện tình của Trung Quốc.
Chiến tranh truyền thông, theo Walton, là một chiến
lược được thiết kế nhằm tác động dư luận quốc tế hòng xây dựng sự ủng hộ đối với Trung Quốc và can ngăn
một đối thủ theo đuổi các hành động ngược lại lợi ích của họ.
Bài báo cáo tình hình của Trung Quốc đã được gửi đến
Liên Hiệp Quốc là để dùng mưu đánh lừa
những
nỗ lực tuyên truyền của Việt Nam và để cô lập Việt Nam. Đại đa số các thành
viên của Liên Hợp Quốc không mấy quan tâm trực tiếp đến tranh chấp lãnh hải ở
Biển Đông. Nhiều nước Đông Nam Á dù có mối quan ngại về các hành động của Trung
Quốc cũng sẽ lẫn tránh để không bị buộc phải thể hiện quan điểm về vấn đề này.
Chiến tranh pháp lý, theo Walton, là một chiến lược
sử dụng pháp luật trong nước và quốc tế để làm cơ sở cho các yêu sách mang tính pháp
lý cao nhằm khẳng định quyền lợi của Trung Quốc. Bài báo cáo tình hình của
Trung Quốc được trang
bị đầy đủ các tài liệu tham khảo chọn lọc phù hợp với luật pháp quốc tế để hỗ
trợ lập trường của mình.
Ban đầu, Trung Quốc đã bảo vệ việc hạ đặt giàn khoan
của họ bằng cách cho rằng đó là vùng lãnh hải của họ. Trung Quốc lưu ý rằng giàn
khoan HYSY 981 nằm ở vị trí 17
hải lý cách đảo Tri Tôn, cực tây của quần đảo Hoàng Sa. Theo Công ước Liên hợp
quốc về Luật Biển (UNCLOS), vùng lãnh hải chỉ mở rộng 12 hải lý tính từ đường
cơ sở ven biển của một quốc gia.
Tuyên bố ngày 6 tháng 6 của Trung Quốc đã sửa đổi lỗi
này bằng cách tuyên bố rằng giàn khoan HYSY 981 nằm trong vùng tiếp giáp lãnh hải
của Trung Quốc. Tuyên bố mới này, tuy nhiên, thiếu cơ sở pháp lý.
Theo UNCLOS mục đích duy nhất của vùng tiếp giáp
lãnh hải là để cho phép một quốc gia ven biển "thực hiện sự kiểm soát cần
thiết để: (a) ngăn chặn hành vi xâm phạm luật pháp và quy định về hải quan, tài
chính, xuất nhập cảnh hoặc an toàn vệ sinh môi trường trong phần lãnh thổ hoặc lãnh hải của
mình; (b) trừng phạt các hành vi vi phạm pháp luật và quy định nói trên trong
phạm vi lãnh thổ hoặc lãnh hải của họ."
Trung Quốc cũng đã cố gắng làm xáo trộn tình hình tranh
chấp với Việt Nam bằng cách đưa
ra
lập luận rằng vị trí của giàn khoan HYSY 981 là gần với quần đảo Hoàng Sa hơn
là bờ biển Việt Nam. Bài báo cáo tình hình của Trung Quốc đã lập luận rằng giàn
khoan HYSY 981 đang hoạt động ở
vị trí 17
hải lý tính từ đảo Tri Tôn và cả các đường cơ sở xung quanh quần đảo Hoàng Sa
và cách đến 133-156 hải lý tính từ bờ biển của Việt Nam.
Đồng thời, Trung Quốc lại tuyên bố chủ quyền đối với
bãi cạn Scarborough, vốn nằm gần Philippines hơn là bất cứ phần đất liền nào xa
nhất thuộc Trung Quốc. Theo luật pháp quốc tế, khoảng cách không phải là yếu tố
duy nhất để chứng minh chủ quyền.
Bài báo cáo tình hình của Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc
thực sự đã làm suy yếu đi khả năng sử dụng chiến tranh pháp lý để thúc đẩy yêu
sách của mình. Ví dụ, Trung Quốc lập luận:
Các vùng biển giữa quần đảo Tây Sa (Hoàng
Sa) của Trung Quốc và bờ biển đất liền Việt Nam vẫn chưa được phân định. Hai
bên chưa tiến hành phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa trong
vùng biển này. Cả hai bên đều có quyền yêu cầu về vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa theo quy định của UNCLOS.
Nếu quả tình như vậy, Trung Quốc nên thực thi các quy định của UNCLOS để đối phó
với các yêu sách chồng lấn. Cả Trung Quốc và Việt Nam lẽ ra nên thực hiện các cuộc dàn xếp tạm về các khu vực
tranh chấp cho đến khi đạt được thỏa thuận về phân định. Trong thời gian này mỗi
bên đều bị cấm không được làm
thay đổi hiện trạng và gây ra bất cứ mối đe dọa nào hoặc không được sử dụng vũ lực. Rõ ràng việc hạ đặt
giàn khoan của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp là vi phạm nguyên tắc pháp
lý quốc tế.
Nhưng báo cáo của Trung Quốc lại thể hiện điểm yếu bằng
cách lập luận bác bỏ tính phù hợp của luật pháp quốc tế. Bài báo cáo cho rằng:
Tuy nhiên, các vùng biển này sẽ không
bao giờ trở thành đặc khu kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam dù cho bất cứ nguyên
tắc nào (trên luật pháp quốc tế) được áp dụng trong việc phân định.
Đại sứ Trung Quốc tại Úc, Ma Zhaozu, góp phần cho
chiến dịch chiến tranh thông tin của Bắc Kinh bằng cách lặp lại các lập luận
tương tự trong một bài viết phản biện trên báo Úc ‘The Australian’ vào ngày 13/6.
Ông Ma cho rằng khu vực tranh chấp chưa bao giờ được phân định và "bất chấp
nguyên tắc nào [của luật pháp quốc tế] được áp dụng, thì các vùng hải phận liên
quan sẽ không bao giờ trở thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt
Nam được."
Việc TQ chính thức đệ trình báo cáo lên Tổng thư ký
Liên Hợp Quốc cần phải được quan tâm giải quyết bởi các thành viên của cộng đồng
quốc tế có lo ngại về căng thẳng leo thang giữa Trung Quốc và Việt Nam và tác động
của nó đối với an ninh khu vực. Các nước này cần đưa vấn đề lên Hội đồng Bảo
an.
Trung Quốc không được phép theo đuổi cuộc chiến
thông tin nước đôi của mình
–
vừa đệ trình một
báo cáo tình hình lên Liên Hợp Quốc để chứng minh tính chất nghiêm trọng của vụ
tranh chấp với Việt Nam và lại đồng thời từ chối quyền trọng tài của Liên Hiệp
Quốc. Mỹ và Úc nên tạo sức ép lên Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc về vấn đề này.
Nhật Bản và các cường quốc hàng hải khác có quyền lợi đối với sự ổn định ở Biển
Đông cũng phải vào cuộc.
Trung Quốc nên bị buộc vào vị trí bất lợi trước Hội
đồng Bảo an và do đó nỗ lực của họ bị phá vỡ, không thể lợi dụng LHQ cho mục đích tuyên truyền của
mình, rồi lại có thể phủ quyết các giải pháp của Hội đồng Bảo an về các hành động
nghiêm trọng của mình ở Biển Đông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét