Chính sách “nhất quán” đầy mâu thuẫn của
Trung Quốc trên Biển Đông
Luận điểm về chính sách đối ngoại nhất quán
của Trung Quốc đã sụp đổ hoàn toàn trên Biển Đông.
Ryan Santicola
24 Tháng 5 2014
Phương Anh dịch
----------
Trong bài
viết ngày 18/5 trên tờ The Diplomat, tác giả Adrien Morin cho rằng Trung Quốc có một chính sách
đối ngoại nhất quán là không gây hấn đối với phương
Tây – một nhận định dựa trên những chính sách của TQ trong cuộc khủng
hoảng Syria. Luận điểm của Morin có thể đúng với chủ trương không can thiệp của
Trung Quốc ở Syria, nhưng nó sụp đổ hoàn
toàn khi suy đoán về tình hình Biển Đông.
Mặc dù có người cho rằng chính sách của TQ trên Biển Đông không phải là
"chính sách đối ngoại", nhưng trên thực tế nó chính là như vậy -
không phải vì lãnh thổ và vùng biển đang tranh chấp rõ ràng là vùng biển
quốc tế, mà vì vấn đề tranh chấp có liên quan đến nhiều quốc gia có chủ quyền
và cần được thực hiện bằng con đường ngoại giao. Việc Trung Quốc
tán thành các hiệp định đa phương và song phương liên quan đến Biển Đông
đã khẳng định thực tế này – bởi, nếu không thì tại sao Trung Quốc
lại ký những hiệp ước quốc tế liên quan đến một khu vực mà nó thực sự tin
rằng mình hoàn toàn có chủ quyền?
Trong
thực tế, Trung Quốc luôn lập đi lập lại điệp khúc phổ biến rằng cách tốt nhất để
giải quyết tranh chấp lãnh thổ và hàng hải trên Biển Đông là thông
qua công cụ của chính sách đối ngoại, cụ thể là đàm phán song phương. Đây
là lời giải thích của Trung Quốc về việc từ chối không tham gia Tòa
án Trọng tài Thường trực cùng với Philippines. Tương tự như vậy, Trung Quốc cũng lấy lý do này để cố tình kéo dài thời gian quyết
định về Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông với ASEAN.
Vậy, phải
chăng chính sách đối ngoại nhất quán của Trung Quốc trên Biển Đông là chính
sách song phương? Không phải thế. Khi nói đến Biển Đông, và đây chính là
chỗ mà ông Morin đã nhầm lẫn, chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong thực tế
rất khác với những gì mà họ đã đề ra. Chính sách này hoàn toàn không nhất
quán mà gồm cả những yếu tố đa phương, song phương, và (gần đây nhất) là
đơn phương, tóm lại là đã đạt đến mức độ thất thường không ai hiểu nổi.
Trong bối
cảnh đa phương, Trung Quốc đã từng chứng minh rằng nó sẵn sàng thừa nhận các
cam kết có tính ràng buộc lẫn không ràng buộc dù nó hoàn toàn không có ý
định tuân thủ. Năm 1996, Trung Quốc đã ký vào Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển (UNCLOS), nhưng vẫn tiếp tục khẳng định các yêu sách về chủ quyền hàng hải
hoàn toàn không phù hợp với công ước này. Trong phạm vi các cam kết không ràng
buộc, Trung Quốc là một bên tham gia Tuyên bố về cách ứng xử của các bên trên
Biển Đông Nam Á (DOC). Tuy nhiên , thông qua các hành vi quấy rối liên tục của
các tàu Trung Quốc trong vùng biển quốc tế, hành động leo thang tại bãi đá ngầm
Scarborough vào năm 2012, và việc tham gia vào các dự án cải tạo đất trong quần
đảo Trường Sa vào năm 2014, quốc gia này đã trắng trợn bỏ qua các cam kết chính
trị của mình để lờ đi không thực hiện DOC.
Tương tự
như vậy, khi thực hiện các cam kết song phương, vốn là ưu tiên
trong chính sách đối ngoại của TQ trên Biển Đông, nó cũng tỏ ra rất lấn
át. Vào đầu tháng Năm, Trung Quốc đã đơn phương chuyển giàn khoan dầu HD -981
của Tổng Công ty dầu khí (CNOOC) vào vùng biển tranh chấp ngoài khơi bờ biển
Việt Nam và trong vùng lân cận quanh quần đảo Hoàng Sa. Hành động này đã được
thực hiện bất chấp thỏa thuận song phương năm 2011 giữa Trung Quốc và Việt Nam
về "các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết các vấn đề liên quan đến vùng
biển", trong đó cả hai quốc gia đã đồng ý giải quyết tranh chấp
"thông qua đàm phán hữu nghị và tham vấn." Tương tự như vậy, vào năm
2012, sau trận đụng độ bất phân thắng bại tại bãi đá ngầm Scarborough, giữa TQ và Philippines đã có một cuộc đàm phán song phương mà theo đó cả hai bên sẽ phải rút tàu khỏi vùng biển tranh chấp; tuy nhiên Trung Quốc đã đơn phương vi phạm những cam kết về phía mình. Nói
cách khác, cho dù các quốc gia có đồng ý với yêu cầu của Trung Quốc để áp dụng cơ
chế song phương thay vì đa phương hoặc trọng tài thì cuối cùng họ cũng chỉ đạt
được kết quả giống hệt như nếu họ chống lại các yêu sách của Trung Quốc ngay từ
đầu – tức là, sẽ vẫn phải chấp nhận những hành động đơn phương từ phía Trung
Quốc.
Có thể
rút ra một kết luận khi xem xét việc thực hành chính sách đối ngoại trên Biển
Đông của Trung Quốc. Kết luận đó là: điều nhất quán duy nhất trong chính
sách của nước này chính là sự thiếu nhất quán và thiếu chiến lược rõ rệt của
nó. Những mâu thuẫn nói trên này không chỉ gây nghi ngờ về thiện chí của Trung
Quốc trong việc đàm phán và diễn giải các thỏa thuận quốc tế mang tính ràng
buộc và không ràng buộc, mà còn làm cho người ta nghi ngờ rằng với thái độ thiếu
nhất quán như vậy từ Trung Quốc, liệu sự ổn định và hợp tác trong khu
vực có khả dĩ hay chăng?
----
Ryan Santicola là một cố vấn quân pháp (judge advocate) trong Hải
quân Hoa Kỳ . Quan điểm thể hiện trong bài viết này là của tác giả và không
nhất thiết phản ánh quan điểm của Chính phủ, Bộ Quốc phòng hoặc Bộ của Hải quân
Mỹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét