Nguồn: http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/cong-thu-1958-khong-cong-nhan-chu-quyen-hoang-sa-cho-trung-quoc-2994595.html
--------------
Về khả năng Việt Nam có thể sẽ sử dụng hành động pháp lý
trước tình hình hiện tại, bà Nguyễn Thị Thanh Hà, Hàm Vụ trưởng Vụ Luật
pháp quốc tế Bộ Ngoại giao, cho biết, với tư cách thành viên của Công
ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS), Việt Nam có quyền sử dụng tất cả các
cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến mình.
"Lãnh đạo Việt Nam khẳng định không loại trừ bất cứ biện pháp nào,
chúng tôi với tư cách cơ quan tư vấn pháp lý sẽ chuẩn bị mọi biện pháp
có thể sử dụng được", bà nói thêm.
Việt Nam và Trung Quốc nhất trí giải quyết bằng hòa bình, các thông tin cho rằng Trung Quốc điều chuyển quân đến khu vực biên giới là chưa chính xác, ông Trần Duy Hải cho biết.
"Trong cuộc gặp của hai Thứ trưởng Ngoại giao, hai bên nhất trí không sử dụng biện pháp quân sự để giải quyết bất đồng. Tôi xin khẳng định như vậy", ông Hải nói, và cho biết thêm rằng hiện các hoạt động giao thương trên biên giới Việt - Trung diễn ra bình thường.
"Tuyệt đại đa số doanh nghiệp bị ảnh hưởng đều đánh giá cao nỗ lực của
chính phủ Việt Nam. Theo chúng tôi được biết, trừ Trung Quốc, không có
nước nào rút công dân về nước", ông Bình nói.
--------------
Công thư 1958 không công nhận chủ quyền Hoàng Sa cho Trung Quốc
Công
thư mà Việt Nam gửi Trung Quốc năm 1958 không hề đề cập đến các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa; trên thực tế chúng nằm dưới vĩ tuyến 17, thuộc
quản lý của Việt Nam Cộng hòa khi đó, vì thế công thư không thể là sự
công nhận chủ quyền của Trung Quốc với hai quần đảo như Bắc Kinh viện cớ
vin vào.
Tàu của cảnh sát biển Việt Nam thực hiện nhiệm vụ tại khu vực quần
đảo Hoàng Sa. Phía xa là giàn khoan 981 mà Trung Quốc hạ đặt trái phép.
Ảnh: Nguyễn Đông
|
Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm nay tổ chức họp công bố các diễn biến thực
địa ở khu vực mà Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trong vùng biển
Việt Nam; các cơ sở pháp lý và bằng chứng chứng minh chủ quyền không thể
tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo.
Đây là lần thứ ba Bộ Ngoại giao tổ chức họp báo quốc tế kể từ khi
Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép trên bờ biển thuộc vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam hồi đầu tháng. Sự kiện thu hút sự quan tâm
của hơn 200 phóng viên, nhà báo của các hãng thông tấn trong và ngoài
nước. Phòng họp chật kín phóng viên, nhiều người phải đứng.
Ông Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, cho
biết bất chấp sự giao thiệp nghiêm túc của Việt Nam từ nhiều cấp, nhiều
hình thức, mọi thiện chí của Việt Nam không được đáp ứng.
Việt Nam đã nhiều lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và tàu hộ tống
khỏi vùng biển Việt Nam, yêu cầu Trung Quốc không gây ảnh hưởng đến an
ninh an toàn hàng hải, và sau khi Trung Quốc rút giàn khoan đôi bên sẽ
trao đổi để kiềm chế và kiểm soát ổn định tình hình trên biển.
Tuy nhiên Trung Quốc vẫn tiếp tục các hành vi xâm phạm, thậm chí có nhiều tuyên bố sai lệch, ông Hải cho biết.
Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới bác bỏ luận điệu sai trái của Trung Quốc
và nêu rõ quan điểm cũng như các bằng chứng của Việt Nam liên quan đến chủ quyền biển đảo. Ông Hải trình chiếu video cho thấy các tư liệu pháp lý lịch sử của Việt Nam liên quan đến quần đảo Hoàng Sa.
"Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và lịch sử đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa", ông nói và nêu từng vấn đề.
"Từ rất nhiều thế kỷ nay, ít nhất là từ thế kỷ thứ 17 các nhà
nước Việt Nam đã xác lập và thực thi chủ quyền với hai quần đảo này từ
khi còn là đất vô chủ. Các Nhà nước phong kiến Việt Nam đã thực thi chủ
quyền của mình ở Trường Sa và Hoàng Sa một cách hòa bình, liên tục phù
hợp với luật pháp quốc tế và không bị quốc gia nào phản đối.
"Trong thời kỳ Pháp thuộc từ giữa thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20
Pháp đã nhân danh Nhà nước Việt Nam để tiếp tục quản lý hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời phản đối các yêu sách của các nước liên
quan đối với hai quần đảo này.
"Chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo đã được khẳng định và
thừa nhận tại hội nghị San Francisco tháng 9/1951. Đây là hội nghị giải
quyết các vấn đề lãnh thổ sau Thế chiến thứ hai.
"Tại hội nghị này, phái đoàn Liên Xô có đề nghị trao hai quần đảo cho
Trung Quốc nhưng 46/51 nước đã bỏ phiếu chống, phản đối việc trao trả.
Cũng tại hội nghị này, trưởng phái đoàn của Chính phủ Bảo Đại đã khẳng
định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo này và không gặp phải
sự phản đối của bất cứ ai.
"Sau Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam Cộng hòa cũng đã ra nhiều tuyên bố
và có những hành vi trên thực tế để thực thi chủ quyền với hai quần đảo
này. Trung Quốc là một nước tham gia hội nghị quốc tế về Đông Dương
Geneva năm 1954, biết rất rõ điều này và phải có trách nhiệm tôn trọng
các văn kiện của hội nghị này.
"Năm 1974 Trung Quốc đã sử dụng vũ lực chiếm đóng toàn bộ quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam. Việt Nam Cộng hòa cũng như chính phủ Cách mạng
lâm thời của Cộng hòa miền Nam Việt Nam đều lên tiếng phản đối hành động
đó của Trung Quốc và khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam với quần đảo
Hoàng Sa.
"Từ góc độ luật pháp quốc tế, việc chiếm đóng bằng vũ lực lãnh thổ của
một quốc gia có chủ quyền là một hành vi phi pháp và không thể đem lại
chủ quyền cho Trung Quốc với Hoàng Sa", ông Hải kết luận.
Về công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958,
ông Hải phân tích văn bản này hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh
thổ, chủ quyền và không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Nội dung công thư chỉ ghi nhận và tán thành việc Trung Quốc mở rộng lãnh
hải 12 hải lý, đồng thời chỉ thị cho các cơ quan Việt Nam tôn trọng
giới hạn 12 hải lý mà Trung Quốc tuyên bố mà thôi.
Việc công thư không đề cập đến hai quần đảo cũng phù hợp với thực tế
lúc đó: hai quần đảo nằm dưới vĩ tuyến 17 và thuộc quyền quản lý của
Việt Nam Cộng hòa, được Pháp giao lại năm 1956 phù hợp với Hiệp định
Geneva năm 1954 mà Trung Quốc có tham gia.
Ngoài ra, công thư phải đặt trong bối cảnh cụ thể thời điểm được gửi
cho Trung Quốc, khi đó Hoàng Sa thuộc quyền quản lý của chính quyền Việt
Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Geneva, Trung Quốc là bên tham gia.
"Bạn không thể cho người khác cái bạn chưa có. Công thư của cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị gì với việc công nhận chủ quyền của
Trung Quốc đối với quần đảo Tây Sa hay Nam Sa theo cách gọi của Trung
Quốc", ông Hải khẳng định.
"Việt Nam sẽ sử dụng các biện pháp hòa bình, bao gồm khả năng sử dụng
cơ quan tài phán quốc tế mà Hiến chương Liên Hợp Quốc và UNCLOS khẳng
định. Việt Nam sẽ sử dụng các biện pháp phù hợp luật quốc tế, và sử dụng
các biện pháp này tốt hơn là để xảy ra xung đột vũ trang", bà Hà nói.
Việt Nam và Trung Quốc nhất trí giải quyết bằng hòa bình, các thông tin cho rằng Trung Quốc điều chuyển quân đến khu vực biên giới là chưa chính xác, ông Trần Duy Hải cho biết.
"Trong cuộc gặp của hai Thứ trưởng Ngoại giao, hai bên nhất trí không sử dụng biện pháp quân sự để giải quyết bất đồng. Tôi xin khẳng định như vậy", ông Hải nói, và cho biết thêm rằng hiện các hoạt động giao thương trên biên giới Việt - Trung diễn ra bình thường.
Ông Bình dẫn số liệu của các cơ quan chức năng của Việt Nam, trong các
cuộc gây rối ở Hà Tĩnh, có hai người Trung Quốc chết. Ở Bình Dương, các
đối tượng xấu gây xô xát, gây ra cái chết cho một người Trung Quốc.
Về việc công nhân Trung Quốc về nước sau các sự cố biểu tình, ông Lê
Hải Bình khẳng định những vụ gây rối tại một số địa phương là hết sức
đáng tiếc. Dưới sự chỉ đạo của của Thủ tướng chính phủ, tình hình đã trở
về bình thường, ổn định.
"Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam và nước ngoài đã khôi phục hoạt
động. Chính phủ Việt Nam sẽ sử dụng mọi biện pháp đảm bảo an toàn tính
mạng, tài sản, đồng thời đảm bảo không để tái diễn sự cố đáng tiếc như
vừa qua", ông Bình cho biết.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình khẳng định, sau
một số vụ gây rối, tình hình đã trở lại hoàn toàn bình thường. Ảnh:
Nguyên Anh
|
Diễn biến thực địa tuần qua
Ông Ngô Ngọc Thu, Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Cảnh sát Biển Việt Nam,
bác bỏ thông tin mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra rằng phía Việt Nam
khiêu khích và đâm va tàu của Trung Quốc. Ông Thu khẳng định thông tin
đó là hết sức sai lệch, mang tính vu cáo.
"Chúng tôi hoàn toàn bác bỏ thông tin này. Thực tế hoạt động trên biển,
trong thời kỳ cao điểm ngày 20/5, Trung Quốc sử dụng tới 137 lượt chiếc
tàu thuyền để bảo vệ giàn khoan, trong đó có 4 tàu chiến và một số máy
bay".
"Tàu Trung Quốc dùng súng phun nước công suất lớn, dùng máy tạo sóng âm
tần gây khó chịu, ảnh hưởng thính giác ở khu vực xung quanh tàu Trung
Quốc khoảng 100 m. Phía Trung Quốc dùng đèn pha công suất lớn và các
phương tiện âm thanh khác tác động đến tàu Việt Nam, tiếp tục đâm va
ngăn cản tàu Việt Nam trên biển.
"Phía Việt Nam hoàn toàn không sử dụng công cụ trên tàu để đáp trả
Trung Quốc mà chỉ dùng loa tuyên truyền, yêu cầu Trung Quốc chấm dứt
hành hoạt động. Có 20 tàu cảnh sát biển và tàu kiểm ngư Việt Nam bị tàu
Trung Quốc đâm va, có tàu bị đâm va đến 3-4 lần.
"Việt Nam khẳng định hoàn toàn không tấn công khiêu khích tàu Trung Quốc", ông Thu kết luận.
Đại tá Ngô Ngọc Thu, Phó tư lệnh - tham mưu trưởng Cảnh sát biển Việt Nam.
|
Trước đề nghị bình luận về việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu
rằng Việt Nam không đổi chủ quyền lấy hữu nghị viển vông và về 16 chữ
vàng trong mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, ông Trần Duy Hải
nói: "Xin khẳng định, vấn đề chủ quyền lãnh thổ là hết sức thiêng liêng
và không gì đánh đổi được. Vàng rất quý nhưng độc lập tự do và chủ quyền
lãnh thổ còn quý hơn vàng".
Về hoạt động khai thác dầu khí, ông Đỗ Văn Hậu, Tổng giám đốc Tập đoàn dầu khí Việt Nam cho biết từ năm 1996, sau khi quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Quốc tế về Luật biển (UNCLOS), hoạt
động dầu khí chỉ thực hiện trong vòng 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Phía Việt Nam đã ký 99 hợp đồng với doanh nghiệp nước ngoài. 30 mỏ đang được khai thác trong vùng thềm lục địa vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, được quốc tế công nhận.
"Các đối tác nước ngoài đều hoạt động bình thường từ rất lâu. Chúng tôi phản đối các hành động của Trung Quốc", ông Hậu nói.
Đánh giá trữ lượng dầu mỏ tại khu vực này, ông Hậu cho biết có các đánh
giá của Trung Quốc, Mỹ và các nước trong khu vực về trữ lượng hydro
carbon về toàn bộ khu vực Biển Đông, Việt Nam cũng có nhiều nghiên cứu
khảo sát, dự báo là từ 4 đến 6 tỷ tấn trong vùng thềm lục địa và vùng
đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Nhiều nơi đánh giá là toàn bộ khu vực Biển Đông có nguồn dầu khí rất
lớn nhưng thực chất Việt Nam không lạc quan như vậy. "Tại những khu vực
đang khoan, chúng tôi đánh giá triển vọng ở đây là không lớn", ông Hậu
nói.
Ông Đỗ Văn Hậu khẳng định các lô dầu khí mà Việt Nam lập ra và khai
thác đều hợp pháp và được quốc tế công nhận. Ảnh: Nguyên Anh
|
Đấu tranh ngoại giao
Kể từ khi Công ty Dầu khí Hải dương Trung Quốc đưa giàn khoan
trái phép vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chính phủ Việt Nam đã
20 lần yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan cùng tàu và máy bay khỏi khu
vực, đồng thời tố cáo hành vi vi phạm luật pháp quốc tế của Trung Quốc
tại các Hội nghị của khu vực ASEAN và các Diễn đàn quốc tế.
Trên kênh ngoại giao đa phương, Việt Nam đưa vụ việc này ra Hội nghị
thượng đỉnh ASEAN lần thứ 24 diễn ra ngày 11/5 tại Myanmar, Diễn đàn
kinh tế Thế giới về Đông Á tại Philippines, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng yêu chuộng hòa bình thế giới.
Trên các diễn đàn này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khẳng định chủ quyền
lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng, nhất định không chấp nhận
đánh đổi điều thiêng liêng này để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị
viển vông, lệ thuộc nào đó. Việt Nam khẳng định kiên quyết bảo vệ chủ
quyền bằng các biện pháp hòa bình và phù hợp luật pháp quốc tế.
Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh đã điện
đàm với người đồng cấp Trung Quốc Vương Nghị, nhằm đề nghị Bắc Kinh phản
hồi tích cực trước yêu cầu rút giàn khoan 981 ra khỏi vùng biển Việt
Nam. Ông cũng có các cuộc nói chuyện điện thoại với bộ
trưởng ngoại giao các nước Mỹ, Nga, Indonesia và Singapore để thông báo
những nỗ lực của Việt Nam nhằm giảm tình hình căng thẳng tại Biển Đông.
Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang
Thanh hôm 20/5 gặp với người đồng cấp Trung Quốc Thường Vạn Toàn bên lề
hội nghị quốc phòng các ASEAN (ADMM) tại Myanmar, yêu cầu Trung Quốc rút
giàn khoan khỏi khu vực.
Tại thực địa, các tàu kiểm ngư của ta vẫn kiên trì đấu tranh hòa bình,
triển khai khoảng 20 tàu, tiến sâu và áp sát giàn khoan hơn để phát loa
tuyên truyền, yêu cầu tàu Trung Quốc rời khỏi khu vực thuộc vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Nhóm phóng viên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét