Dẫn: Bài viết này đã được đăng trên Jakarta Post ngày 28/5/2014 và đăng lại trên trang Biển Đông này. Tuy nhiên vì bài gốc viết bằng tiếng Anh nên chúng tôi cho dịch lại để giới thiệu đến các bạn không đọc được bằng tiếng Anh. Ai đọc được tiếng Anh có thể xem tại đây: http://vietnammaritime.blogspot.com/2014/05/another-side-of-dispute-in-scs-bai-cua.html.
----------
Góc
nhìn khác về vấn đề xung đột trên Biển Đông
ĐLK dịch
ĐLK dịch
Trong một bài viết nhan đề “Những hành vi
nguy hiểm của Việt Nam”, ông Lưu Hồng Dương, Đại diện lâm thời Sứ quán Trung Quốc
ở Indonesia, có đề cập rằng quần đảo Tây Sa (hoặc Paracel) “là một lãnh thổ
không thể tách rời của Trung Quốc.”
Ông Lưu Hồng Dương đã nói “Cộng đồng quốc tế
đã công nhận điều này kể từ Chiến tranh Thế giới lần II, trong khi đó ngày 14
tháng 9 năm 1958, cố Thủ tướng Việt Nam đã công khai thừa nhận quần đảo này
cùng các đảo khác là lãnh thổ của Trung Quốc.”
Tôi cảm thấy buộc phải đưa ra những luận điểm
sau để làm sáng tỏ vấn đề.
Trước hết, Việt Nam có đầy đủ chứng cứ lịch
sử và cơ sở pháp lý để xác quyết chủ quyền của mình đối với quần đảo Paracel
(Hoàng Sa trong tiếng Việt) và quần đảo Spratly (Hoàng Sa trong tiếng Việt).
Những tài liệu lịch sử chính thức đã chứng
minh Việt Nam có chủ quyền hòa bình và liên tục đối với quần đảo Hoàng Sa và quần
đảo Hoàng Sa ít nhất kể từ thế kỷ 17, thời điểm mà các vùng lãnh thổ này được
nhìn nhận là lãnh thổ vô chủ (terra nullius).
Một ví dụ rõ ràng nhất chứng tỏ các hoàng đế
Việt Nam đã lưu tâm đến việc củng cố chủ quyền tại các lãnh thổ này đó là vào
năm 1835 vua Minh Mạng đã cho xây một ngôi chùa và dựng bia đá chủ quyền tại quần
đảo Hoàng Sa.
Về phía mình, Trung Quốc đã không biểu lộ bất
cứ ý định nào đối với việc tuyên bố chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Ngược lại, nhiều bản đồ đã mô tả rõ lãnh thổ của Trung Quốc dưới thời nhà
Thanh được vẽ đảo Hải Nam là cực nam của Trung Quốc. Một trong những tấm bản đồ
này gần đây đã được Thủ tướng Đức Angela Merkel trao tặng ông Tập Cận Bình như
một món quà nhân chuyến viếng thăm của Chủ tịch Trung Quốc đến Đức vào tháng 3
năm 2014.
Khi thiết lập chế độ bảo hộ tại Việt Nam
vào năm 1884, Pháp đã giành quyền quản lý hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
trên danh nghĩa của Việt Nam.
Ngoài ra, chủ quyền của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã được công nhận bởi Hội nghị hòa bình San
Francisco tháng 9 năm 1951 với sự tham dự của lãnh đạo 51 quốc gia. Mục đích của
hội nghị là xác định những vấn đề về lãnh thổ sau Chiến tranh Thế giới lần II.
Tại hội nghị này, trưởng đoàn đại biểu Việt
Nam, Thủ tướng Trần Văn Hữu của chính quyền vua Bảo Đại thời bấy giờ đã khẳng định
chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong khi
không có sự phản đối nào của 50 đại biểu khác.
Điều thú vị đáng chú ý là cũng trong hội
nghị San Francisco, 46 trong số 51 đại biểu. tham dự đã bác bỏ một bản bổ sung
cho Hiệp ước Hòa bình San Francisco có phần đề nghị công nhận chủ quyền của
Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bên cạnh đó, tại Hội nghị Geneva 1954 về việc
khôi phục hòa bình cho bán đảo Đông Dương, Trung Quốc cũng như các bên tham gia
khác đã thừa nhận và tôn trọng nền độc lập và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam. Là một bên tham gia hội nghị, nước Pháp đã đồng thuận với Hiệp ước San
Francisco và rút hết lực lượng của họ khỏi Việt Nam vào năm 1956. Việt Nam Cộng
Hòa đã tiếp quản việc quản lý đối với hai quần đảo trên, sau đó đã có nhiều hoạt
động và vài lần tuyên bố khẳng định chủ quyền của mình đối với Hoàng Sa và Trường
Sa.
Một sự thật không thể chối cãi là vào năm
1974 Trung Quốc đã sử dụng vũ lực để đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa. Hành động bạo
lực này đã vi phạm quy chuẩn tối thiểu của luật quốc tế về cấm sử dụng vũ lực
trong quan hệ quốc tế theo Điều 2 khoản 4 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Vì đã hành động bất chấp luật pháp quốc tế
nên vệc chiếm giữ hiện tại của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa không mang
lại cho họ tính chính danh cho dù người Trung Quốc có ở đó bao lâu và có áp dụng
bất cứ cách thức nào để củng cố việc quản lý của họ tại đó.
Chính Trung Quốc cũng đã chấp nhận những
nguyên tắc này trong một bản tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 12
tháng 5-1988 rằng bạo lực không bao giờ tạo lập nên chủ quyền. Từ góc độ luật
pháp và lịch sử, đòi hỏi của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa là vô căn cứ.
Do đó, việc ông Lưu Hồng Dương cứ khăng khăng cho rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc
về Trung Quốc là một luận cứ sai trái.
Thứ
hai, ông Lưu Hồng Dương đã cố tình làm sai lệch khi viện dẫn bức thư của cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng ngày 14 tháng 9-1958 là một sự công khai thừa nhận chủ quyền
của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa.
Trong bức thư này, ông Phạm Văn Đồng không
đề cập từ nào đến lãnh thổ của Trung Quốc, cũng không nói đến quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa. Ông Phạm Văn Đồng chỉ biểu lộ và đồng tình với yêu sách của Trung
Quốc về vùng biển 12 hải lý. Hơn nữa, việc ông Phạm Văn Đồng không đề cập đến
hai quần đảo này là hợp lý trong bối cảnh lịch sử: Hai quần đảo này khi ấy đã
và đang nằm dưới sự quản lý của Việt Nam Cộng Hòa kể từ năm 1956 như đã nói ở
trên.
Là một bên tham gia Hội nghị Geneva, Trung
Quốc chắc chắn ý thức rõ thực tế việc quản lý trên thực địa Việt Nam được chia
ra ở đường vĩ tuyến 17 theo Hiệp định Geneva 1954.
Hơn nữa, những tuyên bố của Trung Quốc rằng
không có tranh chấp tại quần đảo Hoàng Sa là trái với những gì được thừa nhận bởi
các lãnh đạo Trung Quốc. Ví dụ như vào tháng 9-1975 phó Thủ tướng Trung Quốc
lúc bấy giờ là Đặng Tiểu Bình đã nói với Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam Lê
Duẩn rằng hai bên (Trung Quốc và Việt Nam) có những ý kiến khác nhau về quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa nhưng sẽ được giải quyết thông qua đàm phán. Tuyên bố này
đã được lưu trữ tại Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 12 tháng 5-1988.
Tuy nhiên, ông Lưu Hồng Dương đã có một điểm
đúng khi nói rằng “Chúng ta không nên nghe chỉ một phía của câu chuyện.” Tôi
xem đây như một lời mời giới thiệu đến độc giả câu chuyện từ góc nhìn của tôi.
--------
Người
viết là Đại sứ Việt Nam tại Indonesia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét