Học từ Philippines để kiện Trung Quốc
Nguồn: http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/609257/phai-kien-trung-quoc.html
---------
TS TRẦN CÔNG TRỤC (nguyên trưởng Ban biên giới Chính phủ)
4 cách kiện Trung Quốc 
Khi xảy ra tranh chấp, các bên được quyền tự do lựa 
chọn một hoặc các phương thức giải quyết tranh chấp thông qua Tòa án 
quốc tế về Luật biển (ITLOS) theo phụ lục VI, Tòa án công lý quốc tế 
(ICJ), Hội đồng trọng tài thành lập theo phụ lục VII của UNCLOS hoặc Hội
 đồng trọng tài đặc biệt theo phụ lục VIII (điều 287 UNCLOS). Điều này 
đồng nghĩa với việc có thể vừa kiện Trung Quốc ra ITLOS, vừa kiện ra Hội
 đồng trọng tài theo phụ lục VII hoặc tiếp tục khởi kiện ra ICJ hoặc Hội
 đồng trọng tài đặc biệt. 
 | 
Việc kiện Trung Quốc ra tòa là một trong những phương thức giải quyết hòa bình các tranh chấp trong quan hệ quốc tế. Về nguyên tắc, Việt Nam cũng sẽ vận dụng giải pháp này như từng đề cập trong các nội dung tuyên bố chính thức của mình. Tuy nhiên, vấn đề không dễ dàng vì không phải bất kỳ vụ việc nào cũng có thể đơn phương đệ đơn kiện và đều thuộc thẩm quyền của các cơ quan tài phán quốc tế. Chúng ta không thể kiện Trung Quốc ra trước Tòa án quốc tế về Luật biển (ITLOS) về tranh chấp chủ quyền lãnh thổ hay tranh chấp trong việc phân định vùng biển chồng lấn được, vì tòa này đòi hỏi hai bên phải thỏa thuận cùng đưa vụ việc ra tòa và cam kết thi hành án thì tòa mới xét xử.
Trung Quốc không bao giờ cam kết như vậy. Vì thế 
Philippines phải đưa ra trước Tòa án trọng tài quốc tế về việc Trung 
Quốc giải thích và áp dụng sai Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 
(UNCLOS). Như vậy, Tòa án trọng tài mới có thẩm quyền thụ lý hồ sơ và sẽ
 tiến hành xét xử. Tuy nhiên, vấn đề thi hành án sẽ gặp khó khăn vì khi 
Trung Quốc không chịu thi hành, bên thắng kiện phải nhờ Hội đồng Bảo an 
Liên Hiệp Quốc can thiệp. Nhưng tại đây Trung Quốc có quyền phủ quyết.
Năm thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp 
Quốc từ năm 1945, năm thành lập Liên Hiệp Quốc, đến năm 2012 đã có tất 
cả 269 lần phủ quyết, trong đó Nga 128 lần, Hoa Kỳ 89, Anh 32, Pháp 18 
và Trung Quốc 9... Đó là một thực tế cần được tính toán kỹ trước khi 
khởi kiện.
Những điều luật có thể vận dụng
Philippines đã sử dụng các quy định của UNCLOS để khởi 
động vụ kiện phản đối yêu sách của Trung Quốc đối với các khu vực trên 
biển Đông và các vùng biển mà Trung Quốc không có quyền theo UNCLOS, 
nhưng đó lại là vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Philippines.
Hướng tới mục tiêu tôn trọng đàm phán và thỏa thuận 
giữa các quốc gia có tranh chấp, UNCLOS quy định các quốc gia thành viên
 có nghĩa vụ giải quyết tranh chấp bằng phương thức hòa bình, tuân thủ 
nghĩa vụ tham vấn lẫn nhau và nỗ lực thương lượng để giải quyết tranh 
chấp (điều 279, điều 283, điều 284 UNCLOS). Cơ chế tài phán được đặt ra 
chỉ khi những nỗ lực đàm phán không thành (phần XV, mục 2, UNCLOS).
Trong vụ tranh chấp của Philippines, mặc dù bị đơn 
Trung Quốc là một thành viên của UNCLOS, nhưng họ tuyên bố viện dẫn các 
ngoại lệ để loại bỏ thẩm quyền thụ lý vụ án của các cơ quan tài phán 
trên đối với các tranh chấp liên quan đến việc giải thích và áp dụng các
 điều 15, 74 và 83 về phân định ranh giới biển, không liên quan đến 
vịnh, các hoạt động quân sự và các hoạt động khác của Hội đồng Bảo an 
(điều 298 UNCLOS).
Trong bối cảnh này, nguyên đơn là Philippines buộc phải
 chứng minh được vùng biển Đông tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết 
của các cơ quan tài phán tại UNCLOS và các viện dẫn của Trung Quốc không
 phải là ngoại lệ loại trừ thẩm quyền tài phán của các cơ quan này.
Thực tế, Philippines đã tuân thủ chặt chẽ UNCLOS bằng 
nỗ lực tham vấn với Trung Quốc một cách rộng rãi nhằm giải quyết tranh 
chấp trên cơ sở thương lượng. Khi nỗ lực không kết quả với một nước lớn 
áp đặt như hành xử của Trung Quốc, ngày 22-1-2013 Philippines đã chủ 
động khởi kiện vụ việc yêu cầu Hội đồng trọng tài theo phụ lục VII 
UNCLOS phân xử và cũng trong năm 2013, Philippines đồng thời yêu cầu 
ITLOS giải quyết vụ việc. Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn tiếp tục luận điểm 
“tránh quốc tế hóa vụ việc” mà ưu tiên giải quyết các tranh chấp này 
thông qua đàm phán song phương và tìm cách bác bỏ thẩm quyền tài phán 
của Hội đồng trọng tài theo phụ lục VII hay bất kỳ cơ quan tài phán nào 
theo cơ chế UNCLOS.
Đồng thời, Trung Quốc đã viện dẫn Tuyên bố về cách ứng 
xử của các bên ở biển Đông cho rằng đơn kiện của Philippines đã vi phạm 
các nguyên tắc trong tuyên bố và đang làm phức tạp hơn các xung đột 
trong khu vực. Theo điều 5 của tuyên bố này, các nước thành viên được 
yêu cầu giải quyết tranh chấp lãnh thổ và quyền tài phán bằng biện pháp 
hòa bình mà không cần đến các mối đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, thông qua 
hiệp thương hữu nghị và đàm phán của các quốc gia có chủ quyền trực tiếp
 liên quan. Đây có lẽ là cách Trung Quốc lẩn tránh ràng buộc pháp lý đối
 với phán quyết của Hội đồng trọng tài và/hoặc ITLOS có thể gây bất lợi 
cho mình.
Philippines đã kiện Trung Quốc thế nào?
Động thái đơn phương khởi kiện của Philippines là giải 
pháp tối ưu hóa và hợp pháp hóa theo chuẩn mực quốc tế sau khi nỗ lực 
thương lượng hòa bình không thành công. Nội dung đơn kiện của 
Philippines là các vấn đề thuộc về phân định biển được quy định tại phần
 XV của UNCLOS. Đây là cơ sở để Philippines tự tin tiếp tục vụ kiện nhằm
 phủ định lập luận của Trung Quốc cho rằng UNCLOS không thể quyết định 
về các vấn đề lãnh thổ của quốc gia ven biển. Trong vụ kiện này, một Hội
 đồng trọng tài được thành lập bao gồm năm thành viên, hiện do trọng tài
 viên quốc tịch Ghana làm chủ tịch.
Quy trình tố tụng trọng tài quốc tế vẫn tiếp tục khi 
Philippines đệ trình đầy đủ hồ sơ vụ kiện lên Hội đồng trọng tài mà 
không bị tác động bởi việc Trung Quốc có tham gia tố tụng hoặc có đệ 
trình phản tố hay không (điều 9 phụ lục VII UNCLOS). Cụ thể, điều 9 quy 
định sự vắng mặt hay không thực hiện quyền phản tố của một bên không ảnh
 hưởng đến thủ tục tố tụng và phán quyết của Hội đồng trọng tài. Về kỹ 
thuật, Trung Quốc có thể sẽ phản đối về thẩm quyền tài phán của Hội đồng
 trọng tài bằng việc vận dụng quy định tại điều 298 của UNCLOS như phân 
tích ở trên một khi phán quyết bất lợi cho họ. Như vậy, một trong các 
trở ngại pháp lý lớn nhất là khả năng thi hành phán quyết của Hội đồng 
trọng tài nếu Trung Quốc không tự nguyện thực thi. Cần lưu ý cả 
Philippines và Trung Quốc đều bị ràng buộc bởi phán quyết của Hội đồng 
trọng tài khi họ là thành viên công ước này (khoản 5, điều 287 UNCLOS). 
Thông thường nếu bên có tranh chấp không đưa ra được các căn cứ phản tố 
vững chắc về mặt nội dung, họ sẽ tập trung vào hình thức tố tụng vụ 
kiện.
Theo thời hạn ấn định của Hội đồng trọng tài, vào ngày 
30-3-2014 nguyên đơn Philippines đã nộp bổ sung luận cứ đầy đủ 4.000 
trang cho toàn bộ vụ kiện của mình, bao gồm các yêu cầu tuyên bố chủ 
quyền, khẳng định thẩm quyền tài phán của trọng tài và các yêu cầu bồi 
thường khác.
Thời gian để đưa ra một phán quyết mang tính nhạy cảm, 
phức tạp như trên có thể kéo dài vài năm, nhất là khi một trong các bên 
tranh chấp tuyên bố không tuân thủ phán quyết của trọng tài liên quan 
đến thẩm quyền tài phán. Tuy nhiên, phán quyết từ chế định trọng tài như
 của ITLOS hoặc Hội đồng trọng tài theo phụ lục VII UNCLOS vẫn là các 
văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng có ý nghĩa xác định các quyền và lợi
 ích hợp pháp của các quốc gia ven biển. Là nước lớn, nếu Trung Quốc bất
 tuân thủ phán quyết, họ sẽ chịu điểm trừ trầm trọng về hình ảnh quốc 
gia và bị công luận quốc tế lên án.
Đưa hành vi xâm phạm của Trung Quốc ra tòa là phù hợp.
Việt Nam có thể tiến hành vụ kiện Trung Quốc ra ITLOS, 
Tòa án công lý (ICJ) hoặc Hội đồng trọng tài theo phụ lục VII của công 
ước để đáp trả các hành động “leo thang” xâm phạm trực tiếp vùng biển 
chủ quyền của Việt Nam. Trong khuôn khổ một vụ kiện quốc tế như vậy, 
chúng ta có thể đồng thời yêu cầu Hội đồng trọng tài, tòa án quốc tế áp 
dụng các biện pháp khẩn cấp ngăn chặn các hành vi xâm chiếm, tấn công, 
phá hoại tài sản hợp pháp của công dân và các cơ quan chấp pháp đang 
thực thi công vụ trên phần vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Đối với Việt Nam, đưa hành vi xâm phạm của Trung Quốc 
ra tòa án công lý, trọng tài quốc tế cũng là một biện pháp phù hợp và 
nhất quán với chính sách ngoại giao hòa bình của Việt Nam và luật pháp 
quốc tế... và có lẽ đã đến lúc Việt Nam nên triển khai mặt trận đấu 
tranh pháp lý mạnh mẽ hơn, thiết thực, cụ thể hơn, bằng cách trước hết 
phải huy động được đội ngũ luật gia, luật sư Việt Nam có trình độ, có 
kinh nghiệm ở trong và ngoài nước. Tranh thủ sự giúp đỡ của các luật sư 
người nước ngoài, để cùng xúc tiến hoàn thiện quá trình kiện Trung Quốc 
ra các cơ quan tài phán quốc tế theo đúng thủ tục và nội dung mà Công 
ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 đã quy định.
Ông JAY BATONGBACAL (giám đốc Viện Nghiên cứu Luật biển và đại dương của Philippines):
Ngư dân có thể kiện
Việt Nam có thể sử dụng biện pháp pháp lý (để đối phó 
với Trung Quốc). Các hành vi của Tổng công ty Dầu khí hải dương Trung 
Quốc (CNOOC) rõ ràng vi phạm pháp luật trong nước của Việt Nam khi tiến 
hành mà không hề xin phép cơ quan chức năng của Việt Nam, trong khi hành
 động bảo vệ CNOOC của Trung Quốc rõ ràng vi phạm luật quốc tế khi Bắc 
Kinh bảo vệ hành vi sai trái của một công ty Trung Quốc và cố tình gây 
nguy hiểm cho các tàu và thủy thủ đoàn của Việt Nam. Hành vi này vi phạm
 luật quốc tế và thông lệ về di chuyển hàng hải an toàn cho tàu, và có 
thể được quy là hành vi đe dọa sử dụng vũ lực, vi phạm hiến chương Liên 
Hiệp Quốc.
Đưa vấn đề ra Liên Hiệp Quốc
Lúc này Việt Nam có vài giải pháp. Việt Nam có thể nêu 
vấn đề ra trước Liên Hiệp Quốc vì đây là hành động gây nguy hiểm đối với
 hòa bình và an ninh. Có thể nêu ra tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc hoặc
 Hội đồng Bảo an. Đề xuất này chắc chắn sẽ bị Trung Quốc phủ quyết tại 
Hội đồng Bảo an nhưng chỉ cần vấn đề được nêu là đã thu hút được sự chú ý
 của cộng đồng quốc tế. Tại Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, Việt Nam có thể
 đề xuất một nghị quyết mà ít nhất thể hiện sự không ủng hộ của cộng 
đồng quốc tế với hành vi của Trung Quốc. Một khi các biện pháp tại Liên 
Hiệp Quốc đã được sử dụng, Việt Nam có thể tiến hành vụ kiện chống CNOOC
 và/hoặc Trung Quốc. Các vụ kiện này có thể được tiến hành riêng rẽ hoặc
 cùng lúc.
Ngư dân kiện CNOOC hay vụ kiện quốc tế của nhà nước?
Trung Quốc có thể trả đũa 
Trung Quốc nhiều khả năng sẽ trả đũa các vụ kiện bằng 
các biện pháp kinh tế. Việt Nam nên có các biện pháp bảo vệ mình khi 
Trung Quốc tìm cách giảm giao thương hay rút các doanh nghiệp khỏi Việt 
Nam.   
 | 
Ngư dân Việt Nam có thể kiện đòi bồi thường tổn thất đối với CNOOC tại tòa Việt Nam vì các ngư dân bị tước mất kế sinh nhai và bị gây tổn thương. Đây là trong trường hợp CNOOC có hoạt động kinh tế tại Việt Nam - chịu luật pháp của Việt Nam và có thể bị kiện tại tòa trong nước. CNOOC cũng có thể bị kiện ra tòa trọng tài thương mại quốc tế nhưng cũng tùy thuộc theo luật này vận dụng thế nào tại Việt Nam. Nếu thắng, Việt Nam có thể thu và bán tài sản của CNOOC ở Việt Nam để chi trả cho phần thiệt hại và đền bù.
Việt Nam có thể cùng lúc (hoặc có lẽ là sau khi vụ kiện
 trong nước thắng) kiện Trung Quốc vì hành vi chỉ đạo hay cho phép và 
bảo vệ các hành vi phạm pháp, gây thương vong này. Việt Nam có thể yêu 
cầu dàn hòa bắt buộc theo phần XV và phụ lục VI của UNCLOS (Công ước của
 Liên Hiệp Quốc về Luật biển). Đây là các biện pháp không mang tính ràng
 buộc nhưng có thể giúp đưa báo cáo, trong đó liệt kê các quyền của các 
bên ra cộng đồng quốc tế. Trung Quốc không thể tránh các biện pháp hòa 
giải bắt buộc này.
Sau khi tiến hành biện pháp này mà Trung Quốc vẫn không
 chịu thay đổi chính sách của mình, Việt Nam có thể kiện Trung Quốc theo
 mục XV và phụ lục VII vì hành động đơn phương trong vùng biển đang 
tranh chấp và vì không tuân thủ UNCLOS khi dùng tàu một cách nguy hiểm 
chống lại tàu Việt Nam. Việt Nam cũng có thể kiện đòi đền bù. Những vụ 
kiện như thế này hoàn toàn khác biệt và độc lập với vụ kiện của 
Philippines.
Cục diện biển Đông thay đổi sau vụ kiện
Thay đổi lớn nhất là về chính trị và pháp lý. Nó sẽ 
quốc tế hóa tranh chấp và các hành vi của Trung Quốc lúc này sẽ bị quốc 
tế giám sát nhiều hơn dựa trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế. Vụ 
kiện cũng sẽ cho thấy hành vi và chính sách của Trung Quốc không đúng 
với những thỏa thuận (họ đã ký) và không chấp nhận được đối với cộng 
đồng quốc tế. Vụ kiện cũng có thể trở thành chuẩn mực về cách các nước 
hành xử trong các tranh chấp (cả trên bộ và trên biển). Vụ kiện có thể 
định hình hơn nữa cái gọi là “sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực” trong 
bối cảnh hiện đại khi các quốc gia không chỉ dùng lực lượng vũ trang mà 
cả lực lượng dân sự trên biển.
Nếu Việt Nam thắng kiện, Việt Nam có thể dùng chiến 
thắng này làm con bài trong các chiến lược đối ngoại tương lai với Trung
 Quốc và các nước khác. Ví dụ, một tuyên bố rằng hành động của Trung 
Quốc là bất hợp pháp hay CNOOC phải chịu trách nhiệm dân sự với các ngư 
dân đang chịu tổn hại có thể dùng trong đàm phán với Trung Quốc trong 
tương lai. Hoặc Việt Nam có thể dùng để vận động sự ủng hộ từ các 
nước/các bên liên quan để đối phó với các chiến thuật của Trung Quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét